THĂM ĐẠI HỘI PHẬT GIÁO TOÀN QUỐC LẦN THỨ 7
Thứ Năm, 20 tháng 12, 2012
LỄ CẦU AN ĐẢO BỆNH VÀ CẦU SIÊU (3 NGÀY)
LỄ CẦU AN ĐẢO BỆNH VÀ CẦU SIÊU (3 NGÀY)
LỄ CẦU AN ĐẢO BỆNH VÀ CẦU SIÊU (3 NGÀY)
PHẬT TỬ CÓ TIN CÔNG NĂNG CỦA SỰ CẦU ĐẢO HAY KHÔNG.
Đúng là Phật giáo có tin ở công năng của cầu đảo. Về mặt trình
độ và tỷ lệ linh nghiệm thì cầu đảo của Phật giáo
hơn xa cầu đảo của các tôn giáo khác.
Nguyên
lý của cầu đảo là sức mạnh tâm lý của người cầu đảo,
là sức mạnh của một trạng thái tâm lý siêu tự nhiên,
định tính, thống nhất, đạt tới được nhờ có một niềm
tin mạnh mẽ, nhờ đó mà thông cảm được với nguyện lực
đại bi của đối tượng cầu đảo (chư Phật, Bồ Tát).
Sự
giao tiếp giữa định lực của bản thân với nguyện lực
của chư Phật, Bồ Tát, tạo thành một loại thần lực
không thể nghĩ bàn. Nó chính là linh nghiệm và kinh
nghiệm của sự cầu đảo. Ở các vùng nước Trung Hoa
theo Phật giáo Đại thừa, sự cầu đảo Bồ Tát Quan Âm
có nhiều linh nghiệm rõ ràng. Hơn nữa, một Phật tử
thuần thành, vốn thường xuyên được thiện thần ủng hộ,
cho nên dù không cầu đảo, mà gặp biến cố, cũng
thường không mắc nạn, việc dữ chuyển thành việc lành.
Vì công năng của cầu đảo là ở niềm tin kiên định,
cho nên những Phật tử có niềm tin kiên định, cũng
không khác gì thường xuyên cầu đảo và được hưởng
công năng của sự cầu đảo.
Phật
giáo tuy tin tưởng sâu sắc ở công năng của cầu đảo,
nhưng không cường điệu tính vạn năng của cầu đảo.
Thí dụ, Phật tử bị bệnh, cầu an là cần thiết, nếu
người bệnh có lòng tự tin, lại biết cầu xin khẩn
thiết, thì có thể có cảm ứng và bệnh giảm. Vì vậy,
thuyết pháp nghe pháp cũng có thể trị bệnh (Tăng A
Hàm quyển 6 và Tạp A Hàm quyển 5 v.v…), nếu bệnh
nhân thiếu lòng tự tin, lại thiếu kinh nghiệm về cầu
đảo, thì nên mời thầy thuốc đến xem bệnh, chữa bệnh.
Cho nên, khi đức Phật Thích Ca còn lại thế, Tỷ khiêu
mắc bệnh, thông thường là dùng thuốc chữa bệnh. (4)
Vì
vậy, nói chung, người ta tin rằng Phật giáo chủ yếu
là để chữa tâm bệnh, bệnh sinh tử của chúng sinh.
Còn y học là để chữa thân bệnh. Khi mắc bệnh, cầu an
là cần thiết, xem bệnh chữa bệnh cũng là cần thiết.
Đó là kiến giải của Phật giáo chính tín.
LỄ CẦU SIÊU TIỂU TƯỜNG
CHƠN LINH NGUYỄN THỊ LAN PHÁP DANH LIỄU HƯƠNG NGÀY 7.9 NHÂM THÌN
PHỤ LỤC:
NGHI THỨC CẦU AN
1/
nghi thức:
Tịnh
pháp giới chơn ngôn: An lam xóa ha
(3 lần)
Tịnh
tam nghiệp chơn ngôn:
Án, ta
phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ truật độ hám (3 lần)
Chủ lễ:
Lạy 3 lạy, quỳ ngay thẳng, cầm 3 cây hương ngang trán niệm
2/
Niêm hương: Nguyện hương:
Nguyện
thử diệu hương vân,
Biến
mãn thập phương giới,
Cùng
dường nhất thế Phật,
Tôn
pháp, chư Bồ Tát,
Vô
biên Thanh văn chúng,
Cập nhất
thế thánh hiền,
Duyên
khởi quang minh đài,
Xưng
tánh tác Phật sự,
Phổ
huân chư chúng sanh,
Giai
phát Bồ đề tâm,
Viễn
ly chư vọng nghiệp,
Viên
thành vô thượng đạo.
(
Xá 3 xá, rồi đọc bài kỳ nguyện )
K ỳ
nguyện:
Nam mô Thập
phương thường trú Tam bảo tác đại chứng minh.
Kim (nay)...niên...nguyệt...nhật
Kim cứ (tại)...(chỗ đang hành lễ)... Ðệ tử chúng đẳng phụng Phật, tu hương,
phúng kinh...( đảo bệnh, sám hối, bạt nghiệp)...cầu an.
Kim...(tên gia chủ)...nguyện cầu đệ tử...(tên người được cầu)...phiền não đoạn
diệt,nghiệp chướng tiêu trừ, viễn ly khổ ách. Cung bạch Tam bảo đài tiền, duy
nguyện phù thùy minh chứng
3/ Tán
Phật:
Pháp
vương vô thượng tôn,
Tam giới
vô luân thất,
Thiên
nhơn chi đại sư,
Tứ
sanh chi từ phụ,
Ư nhứt
niệm quy y,
Năng
diệt tam kỳ nghiệp,
Xưng
dương nhược tán thán,
Ức kiếp
mạc năng tận.
4/
Quán tưởng:
Năng lễ,
sở lễ tánh không tịch,
Cảm ứng
đạo giáo nan tư nghì,
Ngã thử
đạo tràng như đế châu,
Thập
phương chư Phật ảnh hiện trung,
Ngã
thân ảnh hiện chư Phật tiền,
Ðầu diện
tiếp túc quy mạng lễ
5/Ðảnh
lễ Tam bảo
Nhất tâm đảnh lễ: Nam
mô tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, tôn
Pháp, Hiền Thánh Tăng thường trú Tam bảo (1 lạy)
Nhất tâm đảnh lễ: Ta bà giáo chủ bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, đương lai hạ sanh
Di Lặc Tôn Phật, đại trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, đại hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ
pháp chư tôn Bồ Tát, linh sơn hội thượng Phật Bồ Tát
(1 lạy)
Nhất tâm đảnh lễ: Tây phương cực lạc thế giới đại từ đại bi A Di Ðà Phật, đại
bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Ðại Thế Chí Bồ Tát, đại nguyện Ðịa Tạng vương Bồ Tát,
thanh tịnh đại hải chúng Bồ Tát (1 lạy)
6/ Cử
tán hay tụng (một bài cúng dường hay sái tịnh tuỳ theo buổi lễ):
Chiên
đàn hải ngạn,
Lư nhiệt
danh hương,
Da du
tử mẫu lưởng vô ương,
Hỏa nội
đắc thanh lương,
Chí
tâm kim tương,
Nhứt
chú biến thập phương.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ tát ma ha
tát.
(3 lần)
7/
Ðồng tụng: Chú Ðại Bi.
Nam mô đại bi hội thượng Phật Bồ
Tát (3 lần)
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni
Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mộ a rị da,
bà lô yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đoả bà da, ma ha tát đoả bà da, ma ha
ca lô ni ca da. Án tát bà ra phạt duệ, số đát na đá tỏa.
Nam mô tất cát lật đỏa , y mông a
rị da, bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà.
Nam
mô na ra cận trì hê rị, ma ha bà đá sa mế, tát bà a tha đậu du bằng , a thệ dựng,
tát bà tát đá, na ma bà già, ma phạt đặc đậu, đát điêt tha. Án, a bà lô hê, lô
ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma
hê ma hê, rị đà dựng , câu lô câu lô, yết mông, đồ lô đồ lô, phạt xà da đế, ma
ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, giá ra giá ra. Mạ mạ
phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt
sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra,
tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ, di đế rị dạ,
na ra cẩn trì, địa rị sắc ni na, ba dạ ma na,ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma
ha tất đà dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì,
ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khư da, ta bà ha. Ta bà ma ha,
a tất đá dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ,
ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ,
ta bà ha.
Nam
mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.
Nam
mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha. Án, tất điện đô, mạn đà ra,
bạt đà dạ, ta bà ha.
Tán:
Trí huệ
hoằng thâm đại biện tài,
Ðoan
cư ba thượng tuyệt trần ai,
Tường
quang thước phá thiên sanh bệnh,
Cam lồ năng trừ vạn kiếp tai,
Tuý liễu
nhất khai kim thế giới,
Hồng
liên dõng xuất ngọc lâu đài,
Ngã
kim khế thủ phần hương tán,
Nguyện
hương nhơn gian ứng hiện lai,
Nam mô đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
(3 lần)
8/ Tác
bạch tuyên sớ:
Nam mô thập phương thường trú Tam
bảo.
(3 lần)
Huỳnh kim mãn nguyệt tướng, Tam giới độc xưng tôn, Hàng phục nhứt thế ma,Chư thiên giai củng thủ.
Như Lai đức tướng nan tận tán dương, kim hữu đệ tử...phụng Phật tu hương phúng
kinh...(sám hối, đảo bệnh hoặc bạt nghiệp)...kỳ an tập phước sự.
Kim tắc:(1) cẩn cụ khai khởi sớ chương, cung bạch Phật
tiền. Duy nguyện hảo tướng quang trung phủ thùy minh chứng (đọc sớ).
PHỤC DĨ
NHỨT NIỆM TÂM THÀNH BÁCH BẢO QUANG TRUNG VÔ BẤT ỨNG.
PHIẾN
HƯƠNG LIÊU NHIỄU THẬP PHƯƠNG HIỀN THÁNH TẬN HƯ KHÔNG.
SỚ VỊ:
VIỆT NAM
QUỐC ...
HIỆN
TRÚ TẠI HOA KỲ QUỐC ...
PHỤNG
PHẬT TU HƯƠNG PHÚNG KINH ... KỲ AN ÐỘ SỰ
Kim đệ
tử ...
Kỳ
nguyện ...
DUY NHẬT
NGƯỠNG CAN
KIM TƯỚNG
QUANG TRUNG PHỦ THÙY CHIẾU GIÁM
NGÔN
NIỆM: đệ tử đẳng phao sanh hạ phẩm; MẠNG THUỘC THƯỢNG THIÊN.HÀ CÀN KHÔN PHÚ TÃI
CHI ÂN, CẢM PHẬT THÁNH PHÒ TRÌ CHI ÐỨC, TƯ VÔ PHIẾN THIỆN; LỰ HỮU DƯ KHIÊN. TƯ
GIẢ BỔN NGUYỆT CÁT NHẬT LIỆT TRẦN HƯƠNG HOA KIỀN THÀNH PHÚNG TỤNG:
ÐẠI
THƯÀ PHÁP BẢO TÔN KINH GIA TRÌ TIÊU TAI CHƯ
PHẨM THẦN CHÚ
ÐẢNH LỄ
TAM
THÂN BỬU TƯƠNG, VẠN ÐỨC KIM DUNG. TẬP THỬ THIỆN NHƠN KỲ TĂNG PHƯỚC QUẢ. KIM TẮC
CẨN CỤ SỚ VĂN HOÀ NAM
BÁI BẠCH:
NAN MÔ
THẬP PHƯƠNG THƯỜNG TRÚ TAM BẢO NHẤT THIẾT CHƯ
PHẬT, TÔN PHÁP, HIỀN THÁNH TĂNG TÁC ÐẠI CHỨNG MINH
NAM MÔ TA BÀ GIÁO CHỦ BỔN SƯ THÍCH
CA MÂU NI PHẬT LIÊN TÒA CHỨNG MINH
NAM MÔ ÐẠi TỪ BI CỨU KHỔ NẠN LINH
CẢM QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
DIÊN
PHỤNG
TAM THỪA
THƯỢNG THÁNH, TỨ PHỦ VẠN LINH, HỘ PHÁP LONG THIÊN, CHƯ VỊ THIỆN THẦN ÐỒNG THÙY
CHIẾU GIÁM CỌNG GIÁNG CÁT TƯỜNG
PHỤC
NGUYỆN
PHẬT
THÙY HỘ HỰU. THÁNH ÐỨC PHÒ TRÌ ÐẲNG CHƯ TAI NẠN
TẬN TIÊU TRỪ, SA SỐ PHƯỚC TƯỜNG GIAI BIỀN TẬP, THÂN CUNG TRÁNG KIỆN, MẠNG VỊ BẰNG
AN
NGƯỠNG
LẠI
PHẬT
ÂN CHỨNG MINH CẨN SỚ
TUẾ THỨ......NIÊN......NGUYỆT......NHẬT
Ðệ Tử
.............................................
Chúng
đẳng
HOÀ NAM THƯỢNG SỚ
“nếu không có sớ”.
Kim tắc:(1)
cung bạch Phật tiền,duy nguyện từ bi gia hộ đệ tử...chúng đẳng, nghiệp chướng
tiêu trừ, thân tâm an lạc. Thật lai Phật ân,chứng minh cẩn bạch
Ðồng tụng
chú Chuẩn Ðề:
Khế thủ
quy y Tô Tất Ðế,
Ðầu diện
đảnh lễ Thất Câu Chi,
Ngã
kim xưng tán Ðại Chuẩn Ðề,
Duy
nguyện từ bi thùy gia hộ.
Nam mô tác đa nẩm,tam miểu tam bồ
đà, câu chi nẩm, đát điệt tha.
Án,
chiết lệ chủ lệ, Chuẩn Ðề Ta bà ha. (3 lần hoặc 7 lần)
Ðồng
sám hối:
Ðệ tử kính lại Ðức Phật Thích Ca, Phật A Di Ðà, Thập phương chư Phật. Vô lượng
Phật pháp, cùng Thánh hiền tăng.
Ðệ tử lâu đời lâu kiếp, nghiệp chướng nặng nề, tham giận kêu căng, si mê lầm lạc.
Ngày nay nhờ Phật, biết sự lỗi lầm, thành tâm sám hối, thề tránh điều dữ, nguyện
làm việc lành. Ngữa trông ơn Phật, từ bi gia hộ, thân không tật bệnh, tâm không
phiền não, hàng ngày an vui tu tập.
Phép
Phật nhiệm mầu, để mau ra khỏi luân hồi, Minh tâm kiến tánh, trí huệ sáng suốt,
thần thông từ tại.
Ðặng cứu
độ các bậc tôn trưởng, cha mẹ anh em, thân bằng quyến thuộc, cùng tất chúng
sanh, đều trọn thành Phật đạo.
*Ðệ tử
vốn tạo chư vọng nghiệp ,
Giai
do vô thỉ tham sân si,
Từ
thân, miệng, ý phát sanh ra,
Ðệ tử
thảy đều xin sám hối.
Thất
Phật diệt tội chơn ngôn:
Ly bà
ly bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà la ni đế, ni ha ra đế, tỳ lê nễ đế, ma ha già đế,
chơn lăng càn đế, ta bà ha. (3 lần)
9/
Khai kinh kệ:
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
(3 lần)
Vô thượng
thậm thâm vi diệu pháp,
Bách
thiên vạn kiếp nan tao ngộ,
Ngã
kim kiến văn đắc thọ trì,
Nguyện
giải Như lai chơn thật nghĩa.
10/ Tụng
kinh: (thường tụng kinh Phổ Môn, hoặc ...)
11/ Niệm
Phật:
Nguyện
ngày an lành,đêm an lành,
Ðêm
ngày sáu thời thường an lành ,
Tất cả
các thời đều an lành,
Xin
nguyện từ bi thường gia hộ. (3 lần)
Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương
Phật. (30 lần)
Nam mô A Di Ðà Phật. (10 lần)
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát. (3 lần)
Nam mô Ðại Bi Hội Thượng Phật Bồ
Tát.
(3 lần)
Sám Phổ
Hiền thập đại nguyện:
Ðệ tử
chúng đẳng,
Tuỳ
thuận tu tập,
Phổ Hiền
Bồ Tát,
Thập
chủng đại nguyện:
Nhất
giả lễ kính chư Phật,
Nhị giả
xưng tán Như lai,
Tam giả
quảng tu cúng dường,
Tứ giả
sám hối nghiệp chướng,
Ngũ
giả tuỳ hỷ công đức,
Luc
giả thỉnh chuyển pháp luân,
Thất
giả thỉnh Phật trụ thế,
Bát giả
thường tuỳ Phật học,
Cửu giả
hằng thuận chúng sanh,
Thập
giả phổ giai hồi hướng.
Nguyện ngã lâm dục mạng chung thời, tận trừ nhất thế chư chướng ngại, diện kiến
bỉ Phật A Di Ðà, tức đắc vãng sanh an lạc sát.
Tiêu
tai cát tường thần chú:
Nẳng mồ tam mãn đa, mẫu đà nẩm. A bát ra để, hạ đa xá, ta nẳng nẩm. Ðát điệt
tha. Án, khê khê, khê hế, khê hế, hồng hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra
nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, để sắc sá, để sắc sá, sắc trí rị, sắc trí rị,
ta phấn tra, ta phấn tra, phiến để ca thất rị duệ, ta phạ ha. (3 lần)
12/ Ðồng
tụng;
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Ða Tâm Kinh
Quán tự tại Bồ Tát, hành thâm Bát nhã ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn
giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị
sắc, thọ, tưởmg, hành, thức, diệt phục như thị.
Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất
tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn,
nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi
chí vô ý thức giới, vô vô minh diệc, vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô
lão tử tận, vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố, Bồ đề tác đỏa y Bát nhã ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại; vô
quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn.
Tam thế chư Phật, y Bát nhã ba la mật đa cố, đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Cố tri Bát nhã ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng
chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chơn thực bất hư.
Cố thuyết Bát nhã ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết:
Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.
13/ H ồi
h ư ớng:
C ầu
an công đức thù thắng hạnh,
Vô
biên thắng phước giai hồi hướng,
Phổ
nguyện pháp giới chư chúng sanh
Tốc
vãng vô lượng quang Phật sát.
Nguyện
tiêu tam chướng trừ phiền não,
Nguyện
đắc trí hụê chơn minh liễu,
Phổ
nguyện tội chướng tất tiêu trừ ,
Thế thế
thường hành Bồ tát đạo.
Nguyện
sanh tây phương tịnh độ trung,
Cửu phẩm
liên hoa vi phụ mẫu,
Bất thối
Bồ tát vi bạn lữ.
Nguyện
dĩ thử công đức,
Phổ cập
ư nhất thiết ,
Ngã đẳng
dữ chúng sanh
Giai cọng
thành Phật đạo
14/ Phục
nguyện:
Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật
tác đại chứng minh.
Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương
Phật tác đâi chứng minh.
Phục nguyện, Quán Âm thị hiện, tầm thanh cứu khổ. Hiện tiền đệ tử...
đoạn dứt
phiền não, nghiệp chướng tiêu trừ, thân tâm an lạc, tảo ly khổ hải.
Phổ
nguyện: Âm siêu, dương thái, pháp giới chúng sanh tề thành Phật đạo.
Nam
mô A Di Ðà Phật.
15/
Tam tự quy:
Tự quy
y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm. (1 lạy)
Tự quy
y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải. (1 lạy)
Tự quy
y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhất thế vô ngại. (1 lạy)
Ðồng tụng:
Nguyện
dĩ thủ công đức,
Phổ cập
ư nhất thế,
Ngã đẳng
dữ chúng sanh,
Giai
công thành Phật đạo
NGHI THỨC CẦU AN (nghĩa)
NGHI THỨC CẦU AN
NIỆM HƯƠNG LỄ BÁI
(Đèn, hương xong, đứng ngay ngắn, chắp tay, nhất tâm mật niệm)
TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN
Úm ta phạ bà phạ, truật đà, ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần)
TỊNH PHÁP-GIỚI CHƠN NGÔN
Úm lam xóa ha (3 lần)
LỤC TỰ ĐẠI MINH CHƠN NGÔN
Úm ma ni bát minh hồng. (3 lần)
(Trì niệm mật chú xong, quỳ thẳng dâng hương và đọc bài tán hương, 3 tiếng chuông)
CÚNG HƯƠNG TÁN PHẬT
Nguyện xin khói hương này,
Như mây tỏa mười phương.
Trong vô biên cõi Phật,
Hóa vô lượng diệu hương,
Cúng dường ba ngôi báu,
Trang nghiêm cả mọi đường
Trọn vẹn Bồ tát đạo,
Thành tựu Như Lai hương.
(3 tiếng chuông)
(Niệm hương, tán hương rồi, đọc tiếp bài kỳ nguyện)
KỲ NGUYỆN
Nam mô Thường trụ Phật,
Nam mô Thường trụ Pháp,
Nam mô Thường trụ Tăng.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát Ma ha tát: Đại bi, Đại danh xưng, cứu hộ khổ ách nạn. (1 tiếng chuông)
Nay đệ tử chúng con . . . (Người tụng có thể tự xướng tên mình)
Thành tâm tụng kinh chú:
Cầu an tăng phúc tuệ, (Nếu tụng kinh vào việc đảo bệnh thì đổi câu này là: “Mong bệnh chướng tiêu trừ”)
Cho Phật tử (tên là…)
Nguyện cứu khổ ách nạn.
Tâm từ bi lan tràn.
Ánh tịnh minh tỏa khắp,
Màn si ám tiêu tan.
Ngài mong muốn chúng sinh :
Khỏi bệnh não, độc hại.
Nơi con mong Ngài lại,
Cho yên vui mãi mãi.
Con nay cung kính lễ:
Bậc: “Nghe danh cứu khổ ”.
Con nay tự quy y,
Đấng Cha Lành muôn thuở.
Con mong Bồ Tát lại,
Khỏi ba độc nguy kịch;
Cho con đời nay vui,
Sau đây vào viên tịch.
Nguyện chúng sinh ba cõi;
Giải thoát mọi khổ não;
Hữu tình và vô tình,
Đều trọn thành Phật đạo. (3 tiếng chuông) SÁM HỐI
Chúng con xin dốc lòng sám hối:
Xưa kia con gây bao ác nghiệp,
Đều vì vô thỉ tham, sân, si
Từ thân, miệng, ý phát sinh ra,
Hết thảy con nay xin sám hối. (3 tiếng chuông)
Quy mệnh đấng Đại Giác,
Diệu pháp, Bồ Tát Tăng.
Con đem ba nghiệp tịnh,
Ân cần cung kính lễ:
Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá hiện, vị lai thập phương chư Phật, tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trụ Tam Bảo. (1 chuông, 1 lễ)
Nam mô Sa Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mưu Ni Phật, Cực Lạc Gáo chủ A Di Đà Phật, Đương lai Giáo chủ Di Lặc Tôn Phật. (1 chuông, 1 lễ)
Nam mô Đại từ, Đại bi linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại lực Đại Thế Chí Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại hải chúng Bồ Tát.(3 chuông, 1 lễ)
CHÚ ĐẠI BI
Nam-mô Ðại-Bi Hội-Thượng Phật Bồ-Tát. (3 lần)
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại-bi tâm đà-la-ni.
Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.
Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, Bồ-đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án, tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tỏa.
Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.
Nam-mô na ra cẩn trì hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ-đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá-lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ-đề dạ bồ-đề dạ, bồ-đà dạ, bồ-đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha.
Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.
Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha.
Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lượt, 1 tiếng chuông) TÁN HƯƠNG
Lò hương vừa đốt,
Cõi Phật thơm lây,
Chư Phật bốn biển đều xa hay.
Thấu tâm thành này,
Chư Phật hiện thân ngay.
Nam mô Thường trụ Pháp,
Nam mô Thường trụ Tăng.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát Ma ha tát: Đại bi, Đại danh xưng, cứu hộ khổ ách nạn. (1 tiếng chuông)
Nay đệ tử chúng con . . . (Người tụng có thể tự xướng tên mình)
Thành tâm tụng kinh chú:
Cầu an tăng phúc tuệ, (Nếu tụng kinh vào việc đảo bệnh thì đổi câu này là: “Mong bệnh chướng tiêu trừ”)
Cho Phật tử (tên là…)
Nguyện cứu khổ ách nạn.
Tâm từ bi lan tràn.
Ánh tịnh minh tỏa khắp,
Màn si ám tiêu tan.
Ngài mong muốn chúng sinh :
Khỏi bệnh não, độc hại.
Nơi con mong Ngài lại,
Cho yên vui mãi mãi.
Con nay cung kính lễ:
Bậc: “Nghe danh cứu khổ ”.
Con nay tự quy y,
Đấng Cha Lành muôn thuở.
Con mong Bồ Tát lại,
Khỏi ba độc nguy kịch;
Cho con đời nay vui,
Sau đây vào viên tịch.
Nguyện chúng sinh ba cõi;
Giải thoát mọi khổ não;
Hữu tình và vô tình,
Đều trọn thành Phật đạo. (3 tiếng chuông) SÁM HỐI
Chúng con xin dốc lòng sám hối:
Xưa kia con gây bao ác nghiệp,
Đều vì vô thỉ tham, sân, si
Từ thân, miệng, ý phát sinh ra,
Hết thảy con nay xin sám hối. (3 tiếng chuông)
Quy mệnh đấng Đại Giác,
Diệu pháp, Bồ Tát Tăng.
Con đem ba nghiệp tịnh,
Ân cần cung kính lễ:
Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá hiện, vị lai thập phương chư Phật, tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trụ Tam Bảo. (1 chuông, 1 lễ)
Nam mô Sa Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mưu Ni Phật, Cực Lạc Gáo chủ A Di Đà Phật, Đương lai Giáo chủ Di Lặc Tôn Phật. (1 chuông, 1 lễ)
Nam mô Đại từ, Đại bi linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại lực Đại Thế Chí Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại hải chúng Bồ Tát.(3 chuông, 1 lễ)
CHÚ ĐẠI BI
Nam-mô Ðại-Bi Hội-Thượng Phật Bồ-Tát. (3 lần)
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại-bi tâm đà-la-ni.
Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.
Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, Bồ-đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án, tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tỏa.
Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.
Nam-mô na ra cẩn trì hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ-đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá-lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ-đề dạ bồ-đề dạ, bồ-đà dạ, bồ-đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha.
Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.
Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha.
Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lượt, 1 tiếng chuông) TÁN HƯƠNG
Lò hương vừa đốt,
Cõi Phật thơm lây,
Chư Phật bốn biển đều xa hay.
Thấu tâm thành này,
Chư Phật hiện thân ngay.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha
Tát. (3 lần, 1 chuông)
KỆ KHAI KINH
Pháp
Phật cao siêu rất nhiệm mầu,
Nghìn muôn ức kiếp dễ hay đâu.
Con nay nghe, thấy xin vâng giữ,
Chân nghĩa Như Lai hiểu thật sâu.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mưu Ni Phật. (3 lần, 1 chuông)
Nam mô Linh Cảm Quán Thế Âm Bồ Tát. (3 lần, 3 chuông) DIỆU PHÁP LIÊN HOA KINH QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT PHỔ MÔN PHẨM
... Bấy giờ, Bồ Tát Vô Tận Ý liền từ tòa ngồi đứng dậy, chễ áo vai hữu, chắp tay hướng lên bạch Phật rằng: “Lạy đức Thế Tôn! Bồ Tát Quán Thế Âm do nhân duyên gì được tên là Quán Thế Âm? ” (chuông)
Đức Phật bảo Bồ Tát Vô Tận Ý: “Thiện nam tử! Nếu có vô lượng trăm nghìn vạn ức chúng sinh chịu mọi khổ não, nghe được danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, một lòng xưng niệm danh hiệu Bồ Tát, tức thì Bồ Tát Quán Thế Âm quán sát giọng tiếng kêu cầu ấy, độ cho họ đều được giải thoát. (chuông)
- Nếu có người trì niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, dù vào trong lửa dữ, do nhờ sức uy thần của Bồ Tát, lửa không cháy được.
- Nếu ai bị nước lớn cuốn trôi, xưng niệm danh hiệu Bồ Tát, liền được gặp chỗ cạn.
- Nếu có trăm nghìn vạn ức chúng sinh vì tìm những thứ quý báu: vàng, bạc, lưu ly, xà cừ, mã não, san hô, hổ phách, chân châu nên vào trong bể cả; giả sử bị gió bão thổi bạt thuyền bè, trôi giạt vào đất nước của quỷ La sát. Trong đó, dù rằng chỉ có một người xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, tất cả những người ấy đều được giải thoát nạn quỉ La sát.
Bởi nhân duyên ấy nên có danh hiệu là “ Quán Thế Âm”. (chuông)
- Nếu lại có người sắp bị sát hại, xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thời dao gậy của người cầm định sát hại ấy liền gẫy từng đoạn, mà được giải thoát.
- Nếu quỉ Dạ Soa, La sát đầy dẫy trong tam thiên đại thiên quốc độ muốn đến quấy hại người, nhưng nghe thấy những người ở đây xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, những quỉ dữ ấy còn không dám dùng con mắt dữ tợn trông họ, huống là còn dám làm hại.
- Ví lại có người, hoặc có tội, hoặc không tội, bị gông cùm xiềng xích; trăng trói thân mình, nếu người ấy xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, các thứ gông cùm, xiềng xích kia đều dứt tung và liền được giải thoát.
- Nếu những oán tặc đầy dẫy trong tam thiên đại thiên quốc độ, có một thương chủ dẫn các lái buôn, đem theo nhiều của báu ngang qua đường hiểm, trong đó có một người xướng lên rằng: "Các Thiện nam tử ! Các bạn đừng nên sợ hãi, các bạn phải nên một lòng xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát ấy thường đem pháp vô úy thí cho chúng sinh, nếu các bạn xưng niệm danh hiệu Bồ Tát, sẽ được giải thoát nạn oán tặc nầy!”. Các người lái buôn nghe theo đều cất tiếng niệm: “Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát”. Vì xưng niệm danh hiệu Bồ Tát liền được giải thoát.
Ông Vô tận Ý! Sức uy thần của đại Bồ Tát Quán Thế Âm lớm lao như thế! (chuông)
- Nếu có chúng sinh nhiều lòng dâm dục, thường cung kính niệm: “Quán Thế Âm Bồ Tát ” liền khỏi được nghiệp tham dục.
- Nếu chúng sinh nhiều sự sân hận, thường cung kính niệm: “Quán Thế Âm Bồ Tát” liền khỏi được nghiệp sân hận.
- Nếu chúng sinh nhiều sự si mê thường cung kính niệm: “Quán Thế Âm Bồ Tát” liền khỏi được nghiệp si mê.
Ông Vô Tận Ý! Bồ Tát Quán Thế Âm có những sức uy thần lớn lao, làm nhiều sự lợi ích cho chúng sinh như thế . Vì vậy, chúng sinh thường nên tâm niệm. (chuông)
- Nếu có nữ nhân, giả sử muốn cầu con trai, lễ bái cúng dàng Bồ Tát Quán Thế Âm, liền sinh con trai phúc đức, trí tuệ. Giả sử muốn cầu con gái, liền sinh con gái có tướng đoan chính; vì trước đã trồng cõi đức, nên được mọi người kính mến.
Ông Vô Tận Ý ! Bồ Tát Quán Thế Âm có sức uy thần như thế! (chuông)
- Nếu có chúng sinh cung kính lễ bái Bồ Tát Quán Thế Âm, phúc ấy không mất. Vì vậy, chúng sinh đều nên thụ trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm! (chuông)
Ông Vô Tận Ý! Nếu có người thụ trì danh tự của sáu mươi hai ức Hằng hà sa Bồ Tát, lại trọn đời cúng dường mọi sự ăn uống, quần áo, đồ nằm, thuốc thang, vậy ý ông nghĩ sao: Công đức của thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy có nhiều không?
Bồ Tát Vô Tận Ý bạch: “Lạy đức Thế Tôn! Công đức ấy rất nhiều”.
Đức Phật nói: “Nếu lại có người thụ trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm cho đến chỉ lễ bái, cúng dàng trong một lúc, phúc đức của hai người ấy bằng nhau không khác, trong trăm nghìn vạn ức kiếp không thể cùng tận.
Ông Vô Tận Ý! Thụ trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm được vô lượng vô biên lợi ích phúc đức như thế! (chuông)
Bồ Tát Vô Tận Ý bạch Phật rằng: “Lạy đức Thế Tôn! Bồ Tát Quán Thế Âm tại sao dạo qua thế giới Sa bà này? Tại sao Bồ Tát vì chúng sinh thuyết pháp? Và sức phương tiện của Bồ Tát dùng trong những sự ấy thế nào?”
Đức Phật bảo Bồ Tát Vô Tận Ý: “Thiện nam tử! Nếu có chúng sinh trong quốc độ nào nên dùng thân Phật mà họ được độ, Bồ Tát Quán Thế Âm liền hiện thân Phật, vì họ nói pháp.
Nơi nên dùng thân Bích Chi Phật mà họ được độ, Bồ Tát liền hiện thân Bích Chi Phật, vì họ nói pháp.
Nơi nên dùng thân Thanh Văn mà họ được độ, Bồ Tát liền hiện thân Thanh Văn, vì họ nói pháp.
Nơi nên dùng thân Phạm Vương mà họ được độ, Bồ Tát liền hiện thân Phạm Vương, vì họ nói pháp.
Nơi nên dùng thân Đế Thích mà họ được độ, Bồ Tát liền hiện thân Đế Thích, vì họ nói pháp.
Nơi nên dùng thân Tự Tại thiên mà họ được độ, Bồ Tát liền hiện thân Tự Tại thiên, vì họ nói pháp.
Nơi nên dùng thân Đại Tự Tại thiên mà họ được độ, Bồ Tát liền hiện thân Đại Tự Tại thiên, vì họ nói pháp.
Nơi nên dùng thân Thiên Đại Tướng Quân mà họ được độ, Bồ Tát liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân, vì họ nói pháp.
Nơi nên dùng thân Tỳ Sa Môn mà họ được độ, Bồ Tát liền hiện thân Tỳ Sa Môn, vì họ nói pháp.
Nơi nên dùng thân Tiểu Vương mà họ được độ, Bồ Tát liền hiện thân Tiểu Vương, vì họ nói pháp.
Nơi nên dùng thân Trưởng Giả mà họ được độ, Bồ Tát liền hiện thân Trưởng Giả, vì họ nói pháp.
Nơi nên dùng thân Cư Sĩ mà họ được độ, Bồ Tát liền hiện thân Cư Sĩ, vì họ nói pháp.
Nơi nên dùng thân Tể Quan mà họ được độ, Bồ Tát liền hiện thân Tể Quan, vì họ nói pháp.
Nơi nên dùng thân Bà La Môn mà họ được độ, Bồ Tát liền hiện thân Bà La Môn, vì họ nói pháp.
Nơi nên dùng thân Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di mà họ được độ, Bồ Tát liền hiện thân Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, vì họ nói pháp.
Nơi nên dùng thân phụ nữ của Trưởng giả, Cư sĩ, Tể quan, Bà la môn mà họ được độ, Bồ Tát liền hiện thân phụ nữ của những bậc ấy, vì họ nói pháp.
Nơi nên dùng thân đồng nam, đồng nữ mà họ được độ, Bồ Tát liền hiện thân đồng nam, đồng nữ, vì họ nói pháp.
Nơi nên dùng những thân: Thiên, Long, Dạ Soa, Càn thát Bà, A tu La, Ca lâu La, Khẩn na La, Ma hầu la già, Nhân và Phi nhân mà họ được độ, Bồ Tát liền hiện ra những thân ấy, vì họ nói pháp.
Nơi nên dùng thân Chấp Kim Cương thần họ được độ, Bồ Tát liền hiện thân Chấp Kim Cương Thần, vì họ nói pháp. (chuông)
Ông Vô Tận Ý! Bồ Tát Quán Thế Âm thành tựu công đức, dùng mọi thân hình, dạo các quốc độ, độ thoát chúng sinh như thế. Vì vậy các ông phải nên một lòng cúng dàng Bồ Tát Quán Thế Âm!
Đại Bồ Tát Quán Thế Âm ở trong lúc tai nạn sợ hãi cấp bách, hay ban cho sự “vô úy”, nên thế giới Sa bà này đều gọi Bồ Tát là bậc “Thí Vô úy”. (chuông)
Bồ Tát Vô Tận Ý bạch Phật rằng: “Lạy đức Thế Tôn! Con nay xin cúng dàng Bồ Tát Quán Thế Âm!”
Bạch rồi, Bồ Tát Vô Tận Ý liền cổi chuỗi ngọc bằng các châu báu, giá trị trăm nghìn lạng vàng đeo trên cổ, đem cúng Bồ Tát Quán Thế Âm mà bạch rằng: “Xin Nhân giả nhận cho chuỗi ngọc bằng trân bảo pháp thí này!”
Bồ Tát Quán Thế Âm không chịu nhận. Bồ Tát Vô Tận Ý lại bạch Bồ Tát Quán Thế Âm rằng: “Xin Nhân giả mẫn niệm chúng tôi mà nhận cho chuỗi ngọc này!”
Bấy giờ, đức Phật bảo Bồ Tát Quán Thế Âm: “Ông nên mẫn miệm đến Bồ Tát Vô Tận Ý cùng tứ chúng và Thiên, Long, Dạ Soa, Càn thát Bà, A tu La, Ca lâu La, Khẩn na La, Ma hầu la Già, Nhân và Phi nhân này mà nhận cho chuỗi ngọc ấy”.
Tức thời, Bồ Tát Quán Thế Âm thương hàng tứ chúng cùng Thiên, Long ... nhân, phi nhân, nhận chuỗi ngọc ấy, rồi chia làm hai phần: một phần dâng lên đức Phật Thích Ca Mưu Ni, một phần dâng lên đức Phật Đa Bảo trong bảo tháp.
Ông Vô Tận Ý! Bồ Tát Quán Thế Âm có thần lực tự tại, dạo khắp thế giới Sa bà như thế! (chuông)
Lúc đó, Bồ Tát Vô Tận Ý đọc bài kệ hỏi Phật rằng: (chuông)
- Thế Tôn đủ diệu tướng,
Nay con xin hỏi lại :
Phật tử nhân duyên gì,
Tên là Quán Thế Âm? (chuông)
- Thế Tôn đủ diệu tướng
Kệ đáp Vô tận Ý:
"Ông nghe Quán Âm hạnh,
Ứng hiện khéo mọi phương.
Nguyện rộng sâu như bể,
Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn;
Hầu hơn nghìn ức Phật,
Phát nguyện lớn thanh tịnh.
Tôi nói qua ông rõ:
Nghe tên cùng thấy thân;
Tâm niệm chẳng luống qua
Hay diệt khổ mọi cõi. (chuông)
Ví người sinh lòng hại,
Đẩy xuống hầm lửa lớn,
Nhờ sức niệm Quán Âm
Hầm lửa biền thành ao.
Hoặc trôi giạt biển lớn
Bị nạn: Quỷ, cá, rồng;
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Sóng cuộn không chìm được,
Hoặc ở ngọn Tu di,
Bị người xô đẩy xuống;
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Như vầng nhật treo không.
Hoặc bị kẻ ác đuổi,
Ngã vập núi kim cương;
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Không tổn đến mảy lông.
Hoặc gặp oán tặc vây,
Chúng cầm dao toan hại:
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Chúng liền khởi từ tâm.
Mắc khổ nạn vương pháp,
Khi gia hình sắp chết;
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Dao liền gãy từng đoạn.
Hoặc bị tù, xiềng xích,
Tay chân bị gông cùm;
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Xổ tung, được giải thoát.
Bị nguyền rủa, thuốc độc.
Muốn ngầm hại thân mình;
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Trở lại hại người chủ.
Hoặc gặp La sát dữ,
Các quỷ, các rồng độc;
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Tức thời không dám hại.
Nếu thú dữ vây quanh,
Nanh vuốt nhọn đáng sợ;
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Vội chạy khắp mọi phương,
Bị rắn rết, bọ cạp,
Hơi độc phun khói lửa,
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Theo tiếng tự lánh đi.
Mây tuôn, nổi sấm sét,
Xối mưa đá, mưa to;
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Ứng thời được tiêu tán.
Chúng sinh bị khốn ách,
Vô lượng khổ bức thân,
Quán Âm diệu trí lực,
Hay cứu đời thoát khổ.
Đầy đủ sức thần thông,
Rộng tu trí phương tiện;
Các quốc độ mười phương,
Không đâu chẳng hiện thân.
Các loài trong đường ác,
Địa ngục, quỷ, súc sinh;
Khổ: sinh, già, ốm, chết,
Dần dần đều diệt hết. (chuông)
Chân quán, thanh tịnh quán,
Quảng đại trí tuệ quán;
Bi quán cùng từ quán,
Thường nguyện, thường chiêm ngưỡng,
Hào quang tịnh không nhơ
Tuệ nhật phá tối tăm,
Hay dẹp tai gió lửa;
Soi sáng khắp thế gian.
Bi thể răn như sấm,
Từ ý nhiệm dường mây;
Rưới mưa pháp cam lộ,
Dứt trừ lửa phiền não.
Kiện tụng tới cửa quan,
Sợ hãi trong quân trận;
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Mọi oán đều lui tan.
Diệu Âm, Quán Thế Âm,
Phạm Âm, Hải triều âm;
Hơn âm thanh của đời,
Vì vậy nên thường niệm.
Niệm niệm chớ sinh nghi,
Quán Thế Âm: tịnh thánh;
Trong khổ não, tử ách,
Ngài làm nơi nương cậy.
Đủ hết thảy công đức,
Mắt Từ trông chúng sinh;
Phúc như bể không lường,
Vì vậy nên đỉnh lễ. (chuông)
Bấy giờ, Bồ tát Trì Địa liền từ tòa ngồi đứng dậy đến trước Phật, bạch rằng: “Lạy đức Thế Tôn! Nếu có chúng sinh nào nghe nói về nghiệp tự tại, sức thần thông phổ môn thị hiện trong phẩm Quán Thế Âm Bồ tát này nên biết công đức người ấy không ít!”. (chuông)
Khi đức Phật nói phẩm Phổ Môn này, trong chúng có tám vạn bốn nghìn chúng sinh đều phát tâm vô đẳng, vô thượng chính đẳng chính giác. (3 tiếng chuông) CÚNG NGỌ (Quỳ xuống chắp tay) CÚNG DƯỜNG
Nam mô thường trụ thập phương Phật
Nam mô thường trụ thập phương Pháp
Nam mô thường trụ thập phương Tăng
Nam mô Bổn sư Thích ca Mâu Ni Phật
Nam mô Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật
Nam mô Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
Nam mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát
Nam mô Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát
Nam mô Già Lam Thánh Chúng Bồ Tát
Nam mô Lịch Đại Tổ Sư Bồ Tát
Nam mô Giám Trai Sứ Giả Bồ Tát
Nam mô Đạo Tràng Hội Thượng Phật, Bồ Tát
Nam mô tát phạ đát tha, nga đa phạ lồ chỉ đế, án tam bạt ra tam bạt ra hồng. (3 lần hoặc 7 lần)
Nam mô tô rô bà da, Đát tha nga đa da, đát điệt tha, Án tô rô tô rô, bát ra tô rô, Bát ra tô rô ta bà ha. (3 lần)
Thử thực sắc hương vị,
Thượng cúng thập phương Phật,
Cung phụng chư Hiền, Thánh,
Hạ cập lục đạo phẩm,
Đẳng thí vô sai biệt,
Tùy nguyện giai bảo mãn,
Linh kim thí giả đắc.
Vô lượng Ba La Mật.
Tam đức, lục vị,
Cúng Phật, cập Tăng,
Pháp giới hữu tình,
Phổ đồng cúng dường.
Án nga nga nẳng tam bà, Phạ phiệt nhựt ra hồng. (3 lần) TÁN CÚNG DƯỜNG
Ngã kim phụng hiến cam lộ vị,
Lượng đẳng tu di vô quá thượng,
Sắc hương mỹ vị biến hư không,
Duy nguyện từ bi ai nhiếp thọ.
Nam mô Thuyền Duyệt Tạng Bồ Tát. (3 lần)
Thượng cúng dĩ ngật
Đương nguyện chúng sanh,
Sở tác giai biện,
Cụ chư Phật Pháp. Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh
Quán tự tại Bồ tát, hành thâm bát nhã ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức, diệt phục như thị.
Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm, thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức, vô nhãn nhĩ tỉ thiệt thân ý, vô sắc thinh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới, vô vô minh diệc, vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận, vô khổ tập diệt đạo, vô trí diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố Bồ Đề Tát đỏa y Bát nhã ba la mật đa cố tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh niết bàn, tam thế chư Phật y bát nhã ba la mật đa cố,đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Cố tri bát nhã ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.
Cố thuyết bát nhã ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết:
Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha. (3 lần) TRÌ NIỆM
Nam mô thập phương thường trụ Phật (3 lần) (1 chuông)
Nam mô thập phương thường trụ Pháp (3 lần) (1 chuông)
Nam mô thập phương thường trụ Tăng (3 lần) (1 chuông)
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần) (1 chuông)
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần) (1 chuông)
Nam mô Di Lặc Tôn Phật (3 lần) (1 chuông)
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát (10 lần hay 1 tràng) (3 chuông)
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát (3 lần) (1 chuông)
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát (3 lần) (3 chuông) (Niệm danh hiệu xong, đứng thẳng, chắp tay, tán lễ Quán Âm thệ nguyện) THẬP NHỊ NGUYỆN
1. Nam mô hiệu viên thông, danh tự tại,
Quán Âm Như Lai quảng phát hoằng thệ nguyện,
Linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát (1 lễ) (1 chuông)
2. Nam mô nhứt niệm tâm vô quái ngại,
Quán Âm Như Lai thường cư Nam Hải nguyện.
Linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát (1 lễ) (1 chuông)
3. Nam mô trụ Ta Bà, U Minh giới,
Quán Âm Như Lai tầm thinh cứu khổ nguyện.
Linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát (1 lễ) (1 chuông)
4. Nam mô hàng tà ma trừ yêu quái,
Quán Âm Như Lai năng trừ nguy hiểm nguyện.
Linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát (1 lễ) (1 chuông)
5. Nam mô thanh tịnh bình, thùy dương liễu
Quán Âm Như Lai cam lồ sái tâm nguyện.
Linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát (1 lễ) (1 chuông)
6. Nam mô đại từ bi, năng hỷ xả,
Quán Âm Như Lai thường hành bình đẳng nguyện.
Linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát (1 lễ) (1 chuông)
7. Nam mô trú dạ tuần vô tổn hoại,
Quán Âm Như Lai thệ diệt tam đồ nguyện.
Linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát (1 lễ) (1 chuông)
8. Nam mô vọng Nam nham, cầu lễ bái,
Quán Âm Như Lai gìa tỏa giải thoát nguyện.
Linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát (1 lễ) (1 chuông)
9. Nam mô tạo Pháp thuyền, du khổ hải
Quán Âm Như Lai độ tận chúng sanh nguyện.
Linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát (1 lễ) (1 chuông)
10. Nam mô tiền tràng phan, hậu bảo cái
Quán Âm Như Lai tiếp dẫn Tây Phương nguyện.
Linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát (1 lễ) (1 chuông)
11. Nam mô Vô Lượng Thọ Phật cảnh giới
Quán Âm Như Lai Di Ðà thọ ký nguyện.
Linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát (1 lễ) (1 chuông)
12. Nam mô đoan nghiêm thân, vô tỷ trại,
Quán Âm Như Lai quả tu thập nhị nguyện.
Linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát (1 lễ) (3 chuông)
Kính lễ Quán Âm Đại bi chủ,
Nguyện lực rộng sâu thân tướng đẹp.
Nay con phát thệ và quy y,
Nguyện ứng theo tâm đều viên mãn.
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con chóng biết hết mọi pháp. (1 lễ) (1 chuông)
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm được trí tuệ nhãn. (1 lễ) (1 chuông)
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con chóng độ mọi chúng sinh. (1 lễ) (1 chuông)
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm được thiện phương tiện. (1 lễ) (1 chuông)
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con chóng chở thuyền bát nhã. (1 lễ) (1 chuông)
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm vượt được bể khổ. (1 lễ) (1 chuông)
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con chóng được giới, định, đạo. (1 lễ) (1 chuông)
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm lên non Niết Bàn. (1 lễ) (1 chuông)
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con chóng ở nhà vô vi. (1 lễ) (1 chuông)
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm đồng thân pháp tính. (1 lễ) (3 chuông) (đọc tiếp bài phát nguyện): BÀI PHÁT NGUYỆN SÁM HỐI
Đệ tử chúng con từ vô thỉ
Gây bao tội-ác bởi lầm mê,
Đắm trong sanh-tử đã bao lần,
Nay đến trước đài Vô-thượng giác
Biển trần khổ lâu đời luân-lạc
Với sinh linh vô số điêu tàn
Sống u hoài trong kiếp lầm than
Con lạc lõng không nhìn phương hướng
Đàn con dại, từ lâu vất vưởng
Hôm nay trông thấy đạo huy hoàng
Xin hướng về núp bóng từ quang
Lạy Phật-Tổ soi đường dẫn bước
Bao tội khổ trong đường ác trược
Vì tham, sân, si, mạn gây nên
Thì hôm nay giữ trọn lời nguyện
Xin sám hối để lòng thanh thoát
Trí Phật quang-minh như nhật nguyệt
Từ-bi vô-lượng cứu quần-sanh
Ôi! Từ lâu ba chốn ngục hình
Giam giữ mãi con nguyền ra khỏi
Theo gót Ngài vượt qua khổ ải
Nương thuyền từ vượt bể ái hà
Nhớ lời Ngài: "Bờ giác không xa"
Hành thập thiện cho đời tươi sáng
Bỏ việc ác cho đời quang-đãng
Đem phúc lành gieo rắc phàm nhân
Lời ngọc vàng ghi mãi bên lòng
Con nguyện được sống đời rộng rãi
Con niệm Phật để lòng nhớ mãi,
Hình bóng người cứu khổ chúng-sanh
Để theo Ngài trên bước đường lành
Chúng con khổ nguyện xin cứu khổ
Chúng con khổ nguyện xin tự độ
Ngoài tham lam, sân hận ngập trời
Phá si mê trí tuệ sáng ngời
Con quyết hướng lên đài giác ngộ.
Hư không kia có ngày sụp đổ,
Lòng thề nguyền hằng nhớ đinh ninh;
Đệ tử và tất cả chúng sinh.
Đồng phát nguyện viên thành Phật đạo. HỒI HƯỚNG
Phúng kinh công-đức thù thắng hạnh,
Vô biên thắng phước giai hồi-hướng,
Phổ nguyện pháp-giới chư chúng-sanh,
Tốc vãng vô-lượng-quang Phật sát.
Nguyện tiêu tam-chướng trừ phiền-não,
Nguyện đắc trí-huệ chơn minh liễu,
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ.
Thế thế thường hành Bồ-tát đạo.
Nguyện sanh Tây-phương Tịnh-độ trung,
Cửu phẩm Liên-hoa vi phụ mẫu,
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,
Bất thối Bồ-tát vi bạn lữ.
Nguyện dĩ thử công-đức,
Phổ cập ư nhứt thiết,
Ngã đẳng dữ chúng-sanh,
Giai cộng thành Phật-đạo. LỄ TỰ QUY Y
Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (1 lễ) (chuông)
Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ kinh tạng, trí tuệ như biển.(1 lễ) (chuông)
Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lễ) (3 chuông) (Đứng thẳng, chắp tay đọc)
Hòa nam Thánh-chúng. (Xá 1 xá rồi đọc tiếp):
Nguyện đem công đức này,
Hướng về khắp tất cả,
Đệ tử và chúng sinh,
Đều trọn thành Phật đạo. (Xá 3 xá rồi lui ra).
Nghìn muôn ức kiếp dễ hay đâu.
Con nay nghe, thấy xin vâng giữ,
Chân nghĩa Như Lai hiểu thật sâu.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mưu Ni Phật. (3 lần, 1 chuông)
Nam mô Linh Cảm Quán Thế Âm Bồ Tát. (3 lần, 3 chuông) DIỆU PHÁP LIÊN HOA KINH QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT PHỔ MÔN PHẨM
... Bấy giờ, Bồ Tát Vô Tận Ý liền từ tòa ngồi đứng dậy, chễ áo vai hữu, chắp tay hướng lên bạch Phật rằng: “Lạy đức Thế Tôn! Bồ Tát Quán Thế Âm do nhân duyên gì được tên là Quán Thế Âm? ” (chuông)
Đức Phật bảo Bồ Tát Vô Tận Ý: “Thiện nam tử! Nếu có vô lượng trăm nghìn vạn ức chúng sinh chịu mọi khổ não, nghe được danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, một lòng xưng niệm danh hiệu Bồ Tát, tức thì Bồ Tát Quán Thế Âm quán sát giọng tiếng kêu cầu ấy, độ cho họ đều được giải thoát. (chuông)
- Nếu có người trì niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, dù vào trong lửa dữ, do nhờ sức uy thần của Bồ Tát, lửa không cháy được.
- Nếu ai bị nước lớn cuốn trôi, xưng niệm danh hiệu Bồ Tát, liền được gặp chỗ cạn.
- Nếu có trăm nghìn vạn ức chúng sinh vì tìm những thứ quý báu: vàng, bạc, lưu ly, xà cừ, mã não, san hô, hổ phách, chân châu nên vào trong bể cả; giả sử bị gió bão thổi bạt thuyền bè, trôi giạt vào đất nước của quỷ La sát. Trong đó, dù rằng chỉ có một người xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, tất cả những người ấy đều được giải thoát nạn quỉ La sát.
Bởi nhân duyên ấy nên có danh hiệu là “ Quán Thế Âm”. (chuông)
- Nếu lại có người sắp bị sát hại, xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thời dao gậy của người cầm định sát hại ấy liền gẫy từng đoạn, mà được giải thoát.
- Nếu quỉ Dạ Soa, La sát đầy dẫy trong tam thiên đại thiên quốc độ muốn đến quấy hại người, nhưng nghe thấy những người ở đây xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, những quỉ dữ ấy còn không dám dùng con mắt dữ tợn trông họ, huống là còn dám làm hại.
- Ví lại có người, hoặc có tội, hoặc không tội, bị gông cùm xiềng xích; trăng trói thân mình, nếu người ấy xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, các thứ gông cùm, xiềng xích kia đều dứt tung và liền được giải thoát.
- Nếu những oán tặc đầy dẫy trong tam thiên đại thiên quốc độ, có một thương chủ dẫn các lái buôn, đem theo nhiều của báu ngang qua đường hiểm, trong đó có một người xướng lên rằng: "Các Thiện nam tử ! Các bạn đừng nên sợ hãi, các bạn phải nên một lòng xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát ấy thường đem pháp vô úy thí cho chúng sinh, nếu các bạn xưng niệm danh hiệu Bồ Tát, sẽ được giải thoát nạn oán tặc nầy!”. Các người lái buôn nghe theo đều cất tiếng niệm: “Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát”. Vì xưng niệm danh hiệu Bồ Tát liền được giải thoát.
Ông Vô tận Ý! Sức uy thần của đại Bồ Tát Quán Thế Âm lớm lao như thế! (chuông)
- Nếu có chúng sinh nhiều lòng dâm dục, thường cung kính niệm: “Quán Thế Âm Bồ Tát ” liền khỏi được nghiệp tham dục.
- Nếu chúng sinh nhiều sự sân hận, thường cung kính niệm: “Quán Thế Âm Bồ Tát” liền khỏi được nghiệp sân hận.
- Nếu chúng sinh nhiều sự si mê thường cung kính niệm: “Quán Thế Âm Bồ Tát” liền khỏi được nghiệp si mê.
Ông Vô Tận Ý! Bồ Tát Quán Thế Âm có những sức uy thần lớn lao, làm nhiều sự lợi ích cho chúng sinh như thế . Vì vậy, chúng sinh thường nên tâm niệm. (chuông)
- Nếu có nữ nhân, giả sử muốn cầu con trai, lễ bái cúng dàng Bồ Tát Quán Thế Âm, liền sinh con trai phúc đức, trí tuệ. Giả sử muốn cầu con gái, liền sinh con gái có tướng đoan chính; vì trước đã trồng cõi đức, nên được mọi người kính mến.
Ông Vô Tận Ý ! Bồ Tát Quán Thế Âm có sức uy thần như thế! (chuông)
- Nếu có chúng sinh cung kính lễ bái Bồ Tát Quán Thế Âm, phúc ấy không mất. Vì vậy, chúng sinh đều nên thụ trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm! (chuông)
Ông Vô Tận Ý! Nếu có người thụ trì danh tự của sáu mươi hai ức Hằng hà sa Bồ Tát, lại trọn đời cúng dường mọi sự ăn uống, quần áo, đồ nằm, thuốc thang, vậy ý ông nghĩ sao: Công đức của thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy có nhiều không?
Bồ Tát Vô Tận Ý bạch: “Lạy đức Thế Tôn! Công đức ấy rất nhiều”.
Đức Phật nói: “Nếu lại có người thụ trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm cho đến chỉ lễ bái, cúng dàng trong một lúc, phúc đức của hai người ấy bằng nhau không khác, trong trăm nghìn vạn ức kiếp không thể cùng tận.
Ông Vô Tận Ý! Thụ trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm được vô lượng vô biên lợi ích phúc đức như thế! (chuông)
Bồ Tát Vô Tận Ý bạch Phật rằng: “Lạy đức Thế Tôn! Bồ Tát Quán Thế Âm tại sao dạo qua thế giới Sa bà này? Tại sao Bồ Tát vì chúng sinh thuyết pháp? Và sức phương tiện của Bồ Tát dùng trong những sự ấy thế nào?”
Đức Phật bảo Bồ Tát Vô Tận Ý: “Thiện nam tử! Nếu có chúng sinh trong quốc độ nào nên dùng thân Phật mà họ được độ, Bồ Tát Quán Thế Âm liền hiện thân Phật, vì họ nói pháp.
Nơi nên dùng thân Bích Chi Phật mà họ được độ, Bồ Tát liền hiện thân Bích Chi Phật, vì họ nói pháp.
Nơi nên dùng thân Thanh Văn mà họ được độ, Bồ Tát liền hiện thân Thanh Văn, vì họ nói pháp.
Nơi nên dùng thân Phạm Vương mà họ được độ, Bồ Tát liền hiện thân Phạm Vương, vì họ nói pháp.
Nơi nên dùng thân Đế Thích mà họ được độ, Bồ Tát liền hiện thân Đế Thích, vì họ nói pháp.
Nơi nên dùng thân Tự Tại thiên mà họ được độ, Bồ Tát liền hiện thân Tự Tại thiên, vì họ nói pháp.
Nơi nên dùng thân Đại Tự Tại thiên mà họ được độ, Bồ Tát liền hiện thân Đại Tự Tại thiên, vì họ nói pháp.
Nơi nên dùng thân Thiên Đại Tướng Quân mà họ được độ, Bồ Tát liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân, vì họ nói pháp.
Nơi nên dùng thân Tỳ Sa Môn mà họ được độ, Bồ Tát liền hiện thân Tỳ Sa Môn, vì họ nói pháp.
Nơi nên dùng thân Tiểu Vương mà họ được độ, Bồ Tát liền hiện thân Tiểu Vương, vì họ nói pháp.
Nơi nên dùng thân Trưởng Giả mà họ được độ, Bồ Tát liền hiện thân Trưởng Giả, vì họ nói pháp.
Nơi nên dùng thân Cư Sĩ mà họ được độ, Bồ Tát liền hiện thân Cư Sĩ, vì họ nói pháp.
Nơi nên dùng thân Tể Quan mà họ được độ, Bồ Tát liền hiện thân Tể Quan, vì họ nói pháp.
Nơi nên dùng thân Bà La Môn mà họ được độ, Bồ Tát liền hiện thân Bà La Môn, vì họ nói pháp.
Nơi nên dùng thân Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di mà họ được độ, Bồ Tát liền hiện thân Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, vì họ nói pháp.
Nơi nên dùng thân phụ nữ của Trưởng giả, Cư sĩ, Tể quan, Bà la môn mà họ được độ, Bồ Tát liền hiện thân phụ nữ của những bậc ấy, vì họ nói pháp.
Nơi nên dùng thân đồng nam, đồng nữ mà họ được độ, Bồ Tát liền hiện thân đồng nam, đồng nữ, vì họ nói pháp.
Nơi nên dùng những thân: Thiên, Long, Dạ Soa, Càn thát Bà, A tu La, Ca lâu La, Khẩn na La, Ma hầu la già, Nhân và Phi nhân mà họ được độ, Bồ Tát liền hiện ra những thân ấy, vì họ nói pháp.
Nơi nên dùng thân Chấp Kim Cương thần họ được độ, Bồ Tát liền hiện thân Chấp Kim Cương Thần, vì họ nói pháp. (chuông)
Ông Vô Tận Ý! Bồ Tát Quán Thế Âm thành tựu công đức, dùng mọi thân hình, dạo các quốc độ, độ thoát chúng sinh như thế. Vì vậy các ông phải nên một lòng cúng dàng Bồ Tát Quán Thế Âm!
Đại Bồ Tát Quán Thế Âm ở trong lúc tai nạn sợ hãi cấp bách, hay ban cho sự “vô úy”, nên thế giới Sa bà này đều gọi Bồ Tát là bậc “Thí Vô úy”. (chuông)
Bồ Tát Vô Tận Ý bạch Phật rằng: “Lạy đức Thế Tôn! Con nay xin cúng dàng Bồ Tát Quán Thế Âm!”
Bạch rồi, Bồ Tát Vô Tận Ý liền cổi chuỗi ngọc bằng các châu báu, giá trị trăm nghìn lạng vàng đeo trên cổ, đem cúng Bồ Tát Quán Thế Âm mà bạch rằng: “Xin Nhân giả nhận cho chuỗi ngọc bằng trân bảo pháp thí này!”
Bồ Tát Quán Thế Âm không chịu nhận. Bồ Tát Vô Tận Ý lại bạch Bồ Tát Quán Thế Âm rằng: “Xin Nhân giả mẫn niệm chúng tôi mà nhận cho chuỗi ngọc này!”
Bấy giờ, đức Phật bảo Bồ Tát Quán Thế Âm: “Ông nên mẫn miệm đến Bồ Tát Vô Tận Ý cùng tứ chúng và Thiên, Long, Dạ Soa, Càn thát Bà, A tu La, Ca lâu La, Khẩn na La, Ma hầu la Già, Nhân và Phi nhân này mà nhận cho chuỗi ngọc ấy”.
Tức thời, Bồ Tát Quán Thế Âm thương hàng tứ chúng cùng Thiên, Long ... nhân, phi nhân, nhận chuỗi ngọc ấy, rồi chia làm hai phần: một phần dâng lên đức Phật Thích Ca Mưu Ni, một phần dâng lên đức Phật Đa Bảo trong bảo tháp.
Ông Vô Tận Ý! Bồ Tát Quán Thế Âm có thần lực tự tại, dạo khắp thế giới Sa bà như thế! (chuông)
Lúc đó, Bồ Tát Vô Tận Ý đọc bài kệ hỏi Phật rằng: (chuông)
- Thế Tôn đủ diệu tướng,
Nay con xin hỏi lại :
Phật tử nhân duyên gì,
Tên là Quán Thế Âm? (chuông)
- Thế Tôn đủ diệu tướng
Kệ đáp Vô tận Ý:
"Ông nghe Quán Âm hạnh,
Ứng hiện khéo mọi phương.
Nguyện rộng sâu như bể,
Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn;
Hầu hơn nghìn ức Phật,
Phát nguyện lớn thanh tịnh.
Tôi nói qua ông rõ:
Nghe tên cùng thấy thân;
Tâm niệm chẳng luống qua
Hay diệt khổ mọi cõi. (chuông)
Ví người sinh lòng hại,
Đẩy xuống hầm lửa lớn,
Nhờ sức niệm Quán Âm
Hầm lửa biền thành ao.
Hoặc trôi giạt biển lớn
Bị nạn: Quỷ, cá, rồng;
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Sóng cuộn không chìm được,
Hoặc ở ngọn Tu di,
Bị người xô đẩy xuống;
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Như vầng nhật treo không.
Hoặc bị kẻ ác đuổi,
Ngã vập núi kim cương;
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Không tổn đến mảy lông.
Hoặc gặp oán tặc vây,
Chúng cầm dao toan hại:
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Chúng liền khởi từ tâm.
Mắc khổ nạn vương pháp,
Khi gia hình sắp chết;
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Dao liền gãy từng đoạn.
Hoặc bị tù, xiềng xích,
Tay chân bị gông cùm;
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Xổ tung, được giải thoát.
Bị nguyền rủa, thuốc độc.
Muốn ngầm hại thân mình;
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Trở lại hại người chủ.
Hoặc gặp La sát dữ,
Các quỷ, các rồng độc;
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Tức thời không dám hại.
Nếu thú dữ vây quanh,
Nanh vuốt nhọn đáng sợ;
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Vội chạy khắp mọi phương,
Bị rắn rết, bọ cạp,
Hơi độc phun khói lửa,
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Theo tiếng tự lánh đi.
Mây tuôn, nổi sấm sét,
Xối mưa đá, mưa to;
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Ứng thời được tiêu tán.
Chúng sinh bị khốn ách,
Vô lượng khổ bức thân,
Quán Âm diệu trí lực,
Hay cứu đời thoát khổ.
Đầy đủ sức thần thông,
Rộng tu trí phương tiện;
Các quốc độ mười phương,
Không đâu chẳng hiện thân.
Các loài trong đường ác,
Địa ngục, quỷ, súc sinh;
Khổ: sinh, già, ốm, chết,
Dần dần đều diệt hết. (chuông)
Chân quán, thanh tịnh quán,
Quảng đại trí tuệ quán;
Bi quán cùng từ quán,
Thường nguyện, thường chiêm ngưỡng,
Hào quang tịnh không nhơ
Tuệ nhật phá tối tăm,
Hay dẹp tai gió lửa;
Soi sáng khắp thế gian.
Bi thể răn như sấm,
Từ ý nhiệm dường mây;
Rưới mưa pháp cam lộ,
Dứt trừ lửa phiền não.
Kiện tụng tới cửa quan,
Sợ hãi trong quân trận;
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Mọi oán đều lui tan.
Diệu Âm, Quán Thế Âm,
Phạm Âm, Hải triều âm;
Hơn âm thanh của đời,
Vì vậy nên thường niệm.
Niệm niệm chớ sinh nghi,
Quán Thế Âm: tịnh thánh;
Trong khổ não, tử ách,
Ngài làm nơi nương cậy.
Đủ hết thảy công đức,
Mắt Từ trông chúng sinh;
Phúc như bể không lường,
Vì vậy nên đỉnh lễ. (chuông)
Bấy giờ, Bồ tát Trì Địa liền từ tòa ngồi đứng dậy đến trước Phật, bạch rằng: “Lạy đức Thế Tôn! Nếu có chúng sinh nào nghe nói về nghiệp tự tại, sức thần thông phổ môn thị hiện trong phẩm Quán Thế Âm Bồ tát này nên biết công đức người ấy không ít!”. (chuông)
Khi đức Phật nói phẩm Phổ Môn này, trong chúng có tám vạn bốn nghìn chúng sinh đều phát tâm vô đẳng, vô thượng chính đẳng chính giác. (3 tiếng chuông) CÚNG NGỌ (Quỳ xuống chắp tay) CÚNG DƯỜNG
Nam mô thường trụ thập phương Phật
Nam mô thường trụ thập phương Pháp
Nam mô thường trụ thập phương Tăng
Nam mô Bổn sư Thích ca Mâu Ni Phật
Nam mô Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật
Nam mô Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
Nam mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát
Nam mô Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát
Nam mô Già Lam Thánh Chúng Bồ Tát
Nam mô Lịch Đại Tổ Sư Bồ Tát
Nam mô Giám Trai Sứ Giả Bồ Tát
Nam mô Đạo Tràng Hội Thượng Phật, Bồ Tát
Nam mô tát phạ đát tha, nga đa phạ lồ chỉ đế, án tam bạt ra tam bạt ra hồng. (3 lần hoặc 7 lần)
Nam mô tô rô bà da, Đát tha nga đa da, đát điệt tha, Án tô rô tô rô, bát ra tô rô, Bát ra tô rô ta bà ha. (3 lần)
Thử thực sắc hương vị,
Thượng cúng thập phương Phật,
Cung phụng chư Hiền, Thánh,
Hạ cập lục đạo phẩm,
Đẳng thí vô sai biệt,
Tùy nguyện giai bảo mãn,
Linh kim thí giả đắc.
Vô lượng Ba La Mật.
Tam đức, lục vị,
Cúng Phật, cập Tăng,
Pháp giới hữu tình,
Phổ đồng cúng dường.
Án nga nga nẳng tam bà, Phạ phiệt nhựt ra hồng. (3 lần) TÁN CÚNG DƯỜNG
Ngã kim phụng hiến cam lộ vị,
Lượng đẳng tu di vô quá thượng,
Sắc hương mỹ vị biến hư không,
Duy nguyện từ bi ai nhiếp thọ.
Nam mô Thuyền Duyệt Tạng Bồ Tát. (3 lần)
Thượng cúng dĩ ngật
Đương nguyện chúng sanh,
Sở tác giai biện,
Cụ chư Phật Pháp. Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh
Quán tự tại Bồ tát, hành thâm bát nhã ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức, diệt phục như thị.
Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm, thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức, vô nhãn nhĩ tỉ thiệt thân ý, vô sắc thinh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới, vô vô minh diệc, vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận, vô khổ tập diệt đạo, vô trí diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố Bồ Đề Tát đỏa y Bát nhã ba la mật đa cố tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh niết bàn, tam thế chư Phật y bát nhã ba la mật đa cố,đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Cố tri bát nhã ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.
Cố thuyết bát nhã ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết:
Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha. (3 lần) TRÌ NIỆM
Nam mô thập phương thường trụ Phật (3 lần) (1 chuông)
Nam mô thập phương thường trụ Pháp (3 lần) (1 chuông)
Nam mô thập phương thường trụ Tăng (3 lần) (1 chuông)
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần) (1 chuông)
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần) (1 chuông)
Nam mô Di Lặc Tôn Phật (3 lần) (1 chuông)
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát (10 lần hay 1 tràng) (3 chuông)
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát (3 lần) (1 chuông)
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát (3 lần) (3 chuông) (Niệm danh hiệu xong, đứng thẳng, chắp tay, tán lễ Quán Âm thệ nguyện) THẬP NHỊ NGUYỆN
1. Nam mô hiệu viên thông, danh tự tại,
Quán Âm Như Lai quảng phát hoằng thệ nguyện,
Linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát (1 lễ) (1 chuông)
2. Nam mô nhứt niệm tâm vô quái ngại,
Quán Âm Như Lai thường cư Nam Hải nguyện.
Linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát (1 lễ) (1 chuông)
3. Nam mô trụ Ta Bà, U Minh giới,
Quán Âm Như Lai tầm thinh cứu khổ nguyện.
Linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát (1 lễ) (1 chuông)
4. Nam mô hàng tà ma trừ yêu quái,
Quán Âm Như Lai năng trừ nguy hiểm nguyện.
Linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát (1 lễ) (1 chuông)
5. Nam mô thanh tịnh bình, thùy dương liễu
Quán Âm Như Lai cam lồ sái tâm nguyện.
Linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát (1 lễ) (1 chuông)
6. Nam mô đại từ bi, năng hỷ xả,
Quán Âm Như Lai thường hành bình đẳng nguyện.
Linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát (1 lễ) (1 chuông)
7. Nam mô trú dạ tuần vô tổn hoại,
Quán Âm Như Lai thệ diệt tam đồ nguyện.
Linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát (1 lễ) (1 chuông)
8. Nam mô vọng Nam nham, cầu lễ bái,
Quán Âm Như Lai gìa tỏa giải thoát nguyện.
Linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát (1 lễ) (1 chuông)
9. Nam mô tạo Pháp thuyền, du khổ hải
Quán Âm Như Lai độ tận chúng sanh nguyện.
Linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát (1 lễ) (1 chuông)
10. Nam mô tiền tràng phan, hậu bảo cái
Quán Âm Như Lai tiếp dẫn Tây Phương nguyện.
Linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát (1 lễ) (1 chuông)
11. Nam mô Vô Lượng Thọ Phật cảnh giới
Quán Âm Như Lai Di Ðà thọ ký nguyện.
Linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát (1 lễ) (1 chuông)
12. Nam mô đoan nghiêm thân, vô tỷ trại,
Quán Âm Như Lai quả tu thập nhị nguyện.
Linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát (1 lễ) (3 chuông)
Kính lễ Quán Âm Đại bi chủ,
Nguyện lực rộng sâu thân tướng đẹp.
Nay con phát thệ và quy y,
Nguyện ứng theo tâm đều viên mãn.
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con chóng biết hết mọi pháp. (1 lễ) (1 chuông)
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm được trí tuệ nhãn. (1 lễ) (1 chuông)
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con chóng độ mọi chúng sinh. (1 lễ) (1 chuông)
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm được thiện phương tiện. (1 lễ) (1 chuông)
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con chóng chở thuyền bát nhã. (1 lễ) (1 chuông)
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm vượt được bể khổ. (1 lễ) (1 chuông)
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con chóng được giới, định, đạo. (1 lễ) (1 chuông)
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm lên non Niết Bàn. (1 lễ) (1 chuông)
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con chóng ở nhà vô vi. (1 lễ) (1 chuông)
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm đồng thân pháp tính. (1 lễ) (3 chuông) (đọc tiếp bài phát nguyện): BÀI PHÁT NGUYỆN SÁM HỐI
Đệ tử chúng con từ vô thỉ
Gây bao tội-ác bởi lầm mê,
Đắm trong sanh-tử đã bao lần,
Nay đến trước đài Vô-thượng giác
Biển trần khổ lâu đời luân-lạc
Với sinh linh vô số điêu tàn
Sống u hoài trong kiếp lầm than
Con lạc lõng không nhìn phương hướng
Đàn con dại, từ lâu vất vưởng
Hôm nay trông thấy đạo huy hoàng
Xin hướng về núp bóng từ quang
Lạy Phật-Tổ soi đường dẫn bước
Bao tội khổ trong đường ác trược
Vì tham, sân, si, mạn gây nên
Thì hôm nay giữ trọn lời nguyện
Xin sám hối để lòng thanh thoát
Trí Phật quang-minh như nhật nguyệt
Từ-bi vô-lượng cứu quần-sanh
Ôi! Từ lâu ba chốn ngục hình
Giam giữ mãi con nguyền ra khỏi
Theo gót Ngài vượt qua khổ ải
Nương thuyền từ vượt bể ái hà
Nhớ lời Ngài: "Bờ giác không xa"
Hành thập thiện cho đời tươi sáng
Bỏ việc ác cho đời quang-đãng
Đem phúc lành gieo rắc phàm nhân
Lời ngọc vàng ghi mãi bên lòng
Con nguyện được sống đời rộng rãi
Con niệm Phật để lòng nhớ mãi,
Hình bóng người cứu khổ chúng-sanh
Để theo Ngài trên bước đường lành
Chúng con khổ nguyện xin cứu khổ
Chúng con khổ nguyện xin tự độ
Ngoài tham lam, sân hận ngập trời
Phá si mê trí tuệ sáng ngời
Con quyết hướng lên đài giác ngộ.
Hư không kia có ngày sụp đổ,
Lòng thề nguyền hằng nhớ đinh ninh;
Đệ tử và tất cả chúng sinh.
Đồng phát nguyện viên thành Phật đạo. HỒI HƯỚNG
Phúng kinh công-đức thù thắng hạnh,
Vô biên thắng phước giai hồi-hướng,
Phổ nguyện pháp-giới chư chúng-sanh,
Tốc vãng vô-lượng-quang Phật sát.
Nguyện tiêu tam-chướng trừ phiền-não,
Nguyện đắc trí-huệ chơn minh liễu,
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ.
Thế thế thường hành Bồ-tát đạo.
Nguyện sanh Tây-phương Tịnh-độ trung,
Cửu phẩm Liên-hoa vi phụ mẫu,
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,
Bất thối Bồ-tát vi bạn lữ.
Nguyện dĩ thử công-đức,
Phổ cập ư nhứt thiết,
Ngã đẳng dữ chúng-sanh,
Giai cộng thành Phật-đạo. LỄ TỰ QUY Y
Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (1 lễ) (chuông)
Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ kinh tạng, trí tuệ như biển.(1 lễ) (chuông)
Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lễ) (3 chuông) (Đứng thẳng, chắp tay đọc)
Hòa nam Thánh-chúng. (Xá 1 xá rồi đọc tiếp):
Nguyện đem công đức này,
Hướng về khắp tất cả,
Đệ tử và chúng sinh,
Đều trọn thành Phật đạo. (Xá 3 xá rồi lui ra).
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)